NHIỄM HIV Ở NHÓM NAM QUAN HỆ TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI TĂNG NHANH

05/05/2021
Nam quan hệ tình dục đồng giới đang được cảnh báo là một trong những nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam hiện nay.

NHIỄM HIV Ở NHÓM NAM QUAN HỆ TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI TĂNG NHANH

Nam quan hệ tình dục đồng giới đang được cảnh báo là một trong những nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam hiện nay. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm này tăng rõ rệt trong những năm gần đây. MSM được dự báo có thể trở thành nhóm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số người nhiễm mới HIV được ước tính hàng năm trong thời gian tới.

Nam quan hệ tình dục đồng giới (viết tắt là MSM từ tiếng Anh: Men who have sex with men hoặc males who have sex with males) là một khái niệm để nhấn mạnh đến hành vi của những người nam có quan hệ tình dục với những người nam khác bất kể bản dạng giới (gender identity) hoặc xu hướng tính dục (sexual orientation) của người đó là gì. Cụm từ “Nam quan hệ tình dục với nam” lần đầu được sử dụng trong cộng đồng những người làm việc y tế công cộng vào những năm 1990 bởi vì hành vi này, dù ở người có xu hướng tính dục đồng tính hoặc có xu hướng tính dục khác, được phát hiện là có liên quan đến một số vấn đề y tế công cộng, nhất là với nguy cơ lây nhiễm HIV.

Lý do khiến khái niệm MSM được sử dụng rộng rãi trong dịch tễ học là do hành vi người nam có quan hệ tình dục với người nam mới là hành vi đáng quan tâm về mặt phòng ngừa và giám sát bệnh tật chứ không phải là người đó là đồng tính hay dị tính. Do vậy nên mô tả con người qua hành vi hơn là khuynh hướng tình dục của họ.

Một người MSM là người có giới tính sinh học là nam giới nhưng có thể có bản dạng giới là nam hoặc là nữ. Người nam có bản dạng giới là nữ có thể có hoặc không có biểu hiện giới là nữ, có nghĩa là có thể ăn mặc như là một người nam hoặc trang điểm, ăn mặc như một người nữ.

MSM có thể có nhiều xu hướng tính dục khác nhau như đồng tính nam (đồng tính luyến ái nam), song tính, toàn tính, dị tính hoặc vô tính. Tuy nhiên phần lớn MSM là người xu hướng tính dục đồng giới. Bởi vì một người nam giới (có nghĩa là có giới tính sinh học là nam) nhưng có sự hấp dẫn tình dục với một người nam giới khác nên mới có hành vi tình dục với người nam. Trong số này những người đồng tính nam có người có bản dạng giới là nam và biểu hiện giới là nam nhưng cũng có người có bản dạng giới là nữ nhưng vẫn có biểu hiện giới tính là nam. Ngoài ra còn có MSM có xu hướng tính dục là song tính hay toàn tính nghĩa là họ vẫn có tình yêu với một người nữ nhưng vẫn có tình yêu với một hoặc nhiều người nam giới khác. Những người này sẽ giao hợp với cả người nam hay nữ trong các hoàn cảnh thích hợp và sẽ có các nguy cơ bị lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền đường tình dục tương tự như các người MSM đồng tính.

Trong nhóm MSM vẫn có người nam dị tính, có thể chỉ yêu, có tình cảm và thu hút tình dục với người nữ nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với một người nam khác do bị ép buộc, do bán dâm hay tò mò. Thậm chí trong nhóm MSM có những người nam vô tính luyến ái nghĩa là không thích cả nam giới và nữ giới nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với người nam khác do áp lực của nhóm hoặc do lao động tình dục.

Nam quan hệ tình dục đồng giới đang được cảnh báo là một trong những nhóm nguy cơ chính của dịch HIV tại Việt Nam hiện nay. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm này tăng rõ rệt trong những năm gần đây. Giám sát trọng điểm năm 2018 chỉ ra tỷ lệ hiện nhiễm trong nhóm này là 10,8% tăng nhanh so với năm 2011 chỉ là 2,9%. Tỷ lệ nhiễm mới HIV cao trong nhóm MSM cũng tăng lên từng năm. Một số địa phương người nhiễm HIV mới được phát hiện có tới hơn 50% là nhóm MSM và MSM được dự báo có thể trở thành nhóm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số người nhiễm mới HIV được ước tính hàng năm trong thời gian tới.

Vậy tại sao nhiễm HIV ở nhóm MSM gia tăng nhanh? Có rất nhiều lý do có rất nhiều và sau đây là một số các lý do theo các nhà chuyên môn nghiên cứu về hành vi của nhóm MSM đã chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản sau:

- Hành vi tình dục của người nam có quan hệ tình dục với nam chủ yếu qua đường hậu môn: Hành vi tình dục của MSM có thể rất đa dạng, bao gồm quan hệ tình dục qua đường miệng, đường hậu môn, và thủ dâm cho nhau. Theo truyền thống, quan hệ tình dục của người MSM và đồng tính nam là giao hợp qua hậu môn. Trong quan hệ tình dục qua hậu môn ở người MSM, người đưa dương vật của mình vào hậu môn của người kia được gọi là “top” và người tiếp nhận dương vật của bạn tình vào hậu môn của mình được gọi là bottom hay “bot”. Người thực hiện cả vai trò top hay bot được gọi là người linh hoạt (versatile).

Hành vi tình dục phổ biến và có ý nghĩa quan trọng đến sức khỏe cộng đồng là giao hợp qua hậu môn. Một người đàn ông (có vai trò là top) sẽ đưa dương vật của mình vào hậu môn của một người nam khác (người này có vai trò bottom hay bót) trong quá trình giao hợp. Người có vai trò top có cảm nhận khoái cảm từ cảm giác ở dương vật, người có vai trò bot có cảm nhận khoái cảm từ các tận cùng thần kinh ở hậu môn và thông qua kích thích gián tiếp tuyến tiền liệt ở nam giới. Do ở hậu môn có cơ vòng hậu môn co thắt thường xuyên nên việc giao hợp qua hậu môn có thể gây đau đớn hay khó khăn đối với nhiều người. Để giúp cho việc giao hợp qua hậu môn dễ dàng và ít chấn thương hơn, các cặp bạn tình có thể sử dụng chất bôi trơn. Một số người ở vai trò bottom sử dụng các hợp chất nitrite (như amyl nitrite với tên lóng là popper) để giãn cơ vòng hậu môn để giao hợp dễ dàng hơn. Ngoài ra popper còn làm tăng cảm giác ham muốn và khoái cảm. Người ở vai trò top cũng có thể dùng popper để tạo cảm giác phê và tăng ham muốn nhưng ít sử dụng hơn do popper làm giảm khả năng cương cứng.

Quan hệ tình dục qua hậu môn, nếu không áp dụng biện pháp bảo vệ, làm tăng nguy cơ nhiễm một số bệnh lây truyền qua tình dục như nhiễm HIV, chlamydia, lậu, herpes…, bệnh qua đường máu như viêm gan C, viêm gan B và nguy cơ ung thư hậu môn trực tràng do nhiễm virus u nhú người (HPV) và nhiều bệnh truyền nhiễm khác như viêm gan A, thương hàn, salmonella, shigella, amip, E. coli… Nguy cơ lây nhiễm HIV qua giao hợp qua đường hậu môn cao hơn so với giao hợp qua âm đạo. Nguyên nhân là do niêm mạc ở trực tràng dễ bị tổn thương và dễ bị virus xâm nhập hơn so với niêm mạc âm đạo.
Những người có quan hệ tình dục linh hoạt là động lực rất quan trọng lây truyền HIV ở cộng đồng MSM. Khi đóng vai trò bot, những người này lại có nguy cơ bị nhiễm HIV cao và khi bị nhiễm HIV thì ở vị trí top, những người này lại là nguồn lây HIV cho những người khác.

Trong quan hệ tình dục qua hậu môn, ngoài cách thức đưa dương vật vào hậu môn còn có những hình thức khác như đưa ngón tay (hoặc nắm tay) vào hậu môn, đưa đồ chơi tình dục vào hậu môn, quan hệ tình dục miệng-hậu môn. Các hình thức quan hệ này đều có thể tạo nguy cơ các bệnh truyền nhiễm và nguy cơ thương tổn.

Ở Việt Nam, theo một khảo sát trên Internet do iSEE tiến hành trên 1453 MSM tiến hành vào năm 2009, có 83,4% có quan hệ tình dục trong 6 tháng gần nhất (75,8% từng quan hệ tình dục chỉ với nam và 7,6% cũng từng quan hệ với nữ). Trong nhóm những người có quan hệ trong 6 tháng gần đây, 48% có nhiều hơn một bạn tình nam và 72,1% có quan hệ hậu môn. Trong số nhóm có quan hệ hậu môn đó, 40% không dùng bao cao su trong lần quan hệ hậu môn gần nhất (Phạm Quỳnh Phương 2013).

Các hình thức quan hệ tình dục khác: Các hình thức quan hệ tình dục của MSM bao gồm tình dục qua miệng, cọ dương vật vào nhau, hay thủ dâm lẫn nhau. Những hình thức này có thể có nguy cơ lây nhiễm HIV thấp khi quan hệ tình dục theo đường hậu môn.

- Số lượng bạn tình của MSM: Số lượng bạn tình của MSM thay đổi theo từng cá nhân và trung bình số lượng bạn tình của MSM thay đổi theo thời gian. Ở Hoa Kỳ vào thời điểm bắt đầu dịch HIV thì trung bình số lượng bạn tình của người MSM là cao hơn so với hiện tại; Số lượng bạn tình cũng còn tùy thuộc theo địa phương và đặc thù của quần thể MSM. Nhìn chung các báo cáo tại Hoa Kỳ cho thấy MSM có số bạn tình đồng thời cao hơn và tỉ lệ có quan hệ tình dục không bảo vệ cao hơn so với nhóm chỉ quan hệ tình dục khác giới. Ở những khu vực đô thị lớn, nhiều MSM chấp nhận việc có nhiều người bạn tình đồng thời. Ở một số quốc gia có những quán bar dành cho người đồng tính nam, hiệu sách dành cho người đồng tính nam, rạp hát, các khu nghỉ dưỡng, các lễ hội âm nhạc cho cộng đồng đồng tính. Đây là nơi các MSM có thể tham gia các hoạt động tình dục với nhiều bạn tình.

- Sử dụng chất liên quan đến tình dục: Là việc sử dụng chất ngay trước và trong khi quan hệ tình dục để khởi đầu, duy trì hoặc cải thiện chất lượng của quan hệ tình dục, có thể xảy ra ở cả người nam và người nữ, kể cả người đồng tính và dị tính. Các con số ước lượng tỉ lệ người sử dụng chất liên quan đến hành vi tình dục là không chính xác do sai lệch chọn mẫu và do mức độ chân thật của câu trả lời. Tuy nhiên điều mà mọi nghiên cứu đều công nhận là tỉ lệ sử dụng chất liên quan đến tình dục thường xảy ra ở nam nhiều hơn nữ. Các chất thường sử dụng như cần sa, methamphetamine, popper hay viagra và thường xảy ra ở người nam đồng tính hơn người nam dị tính như GHB, ketamine và các chất kích thích như methamphetamine, mephedrone, MDMA, cocaine, popper và viagra. Sở dĩ ở MSM tỉ lệ sử dụng chất cao là do quan hệ tình dục ở nhóm này có nhiều rào cản và những người MSM muốn sử dụng chất để vượt qua các rào cản và có cảm nhận khác biệt. Những rào cản có thể là rào cản về tâm lí (như tự cảm thấy khởi đầu quan hệ tình dục đồng giới có vẻ khó khăn hơn quan hệ tình dục khác giới); về xã hội (hai người có quan hệ tình dục đồng giới cảm thấy mình có thể bị kì thị về hành vi này); về thể chất (giao hợp qua hậu môn có thể bị đau hơn so với quan hệ qua âm đạo, đòi hỏi dương vật phải cương cứng hơn). MSM cũng muốn thực hành những hành vi khác biệt (như đưa nắm tay vào hậu môn hoặc các bạo hành tình dục khác) và mong muốn có những cảm xúc đặc biệt nên dễ dàng bị lôi kéo vào sử dụng chất, kể cả chất có tính chất hướng thần và không hướng thần.

- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) – Bạn đồng hành của lây nhiễm HIV: Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở đâu có tỉ lệ STD cao ở đó có sự gia tăng HIV/AIDS. Ngược lại vùng nào can thiệp, phòng chống STD tốt, tỉ lệ nhiễm HIV sẽ rất thấp. Nghiên cứu ở một vùng của Tanzania cho thấy điều trị giảm tỉ lệ STD trong cộng đồng đã giảm được 38% tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS trong một thời gian ngắn.

Như vậy có thể nói STD vừa là bạn đồng hành, vừa là yếu tố nguy cơ, vừa là yếu tố chỉ điểm của HIV/AIDS. Hay nói cách khác cả STD và HIV/AIDS đều có chung các yếu tố nguy cơ cao là quan hệ tình dục không an toàn, quan hệ tình dục với nhiều người.

Văn Hanh

02/QĐ-TTg

Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045

98/2021/NĐ-CP

Quản lý trang thiết bị y tế

20/2021/TT-BYT

Quy định về quản lý chất thải y tế trong phạm vi khuôn viên cơ sở y tế

7937/VPCP-QHQT

V/v áp dụng “Hộ chiếu vắc-xin” và các biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia nước ngoài nhập cảnh phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế

285/TB-VPCP

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, tại cuộc họp Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 trực tuyến các địa phương về công tác phòng, chống dịch COVID-19

1265/HD-BCĐ

HƯỚNG DẪN QUẢN LÝ NGƯỜI MẮC COVID-19 TẠI NHÀ

38/TB-UBND

Kết luận của UBND tỉnh Nguyễn Tấn Tuân kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Khánh Hòa tại cuộc họp Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 ngày 25/01/2022

48/TB-UBND

Kết luận của Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Văn Thiệu kiêm Phó Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Khánh Hòa tại cuộc họp Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 ngày 11/02/2022

38/TB-UBND

Kết luận của Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Tấn Tuân kiêm Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Khánh Hòa tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 ngày 25/01/2022

509/UBND-KGVX

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG DỊCH COVID-19 TRƯỚC, TRONG VÀ SAU TẾT NGUYÊN ĐÁN NHÂN DẦN 2022

472/QĐ-BYT

V/v hướng dẫn chẩn đoán điều trị, chăm sóc, theo dõi và quản lý người bệnh Hemophilia

627/QĐ-BYT

V/v ban hành tài liệu chuyên môn "Hướng dẫn một số quy trình kỹ thuật điều trị bệnh sụp mi"

579/QĐ-BYT

V/v ban hành tài liệu chuyên môn "Hướng dẫn kiểm soát lây nhiễm lao trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cộng đồng"

1695/KCB-NV

Tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

1242/QĐ-BYT

Tài liệu hướng dẫn phục hồi chức năng và tự chăm sóc các bệnh có liên quan sau mắc Covid-19

1864/SYT-NVYD

Thu hồi thuốc Temozolomid Ribosepharm 100 mg

906/SYT-NVYD

TĂNG CƯỜNG TIÊM VẮC XIN PHÒNG COVID-19 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

786/SYT-NVYD

Cập nhật tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh đến 16h ngày 21/02/2022

786/SYT-NVYD

Cập nhật tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh đến 16h ngày 21/02/2022

694/SYT-NVYD

Cập nhật tình hình dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh đến 17h ngày 15/02/2022

2525/KSBT-TCHC

Mời chào giá thuê xe vận chuyển viên chức, người lao động đi công tác các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Khánh Hòa

2253/KSBT-TCHC

Mời chào giá thuê xe vận chuyển viên chức, người lao động đi công tác các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Khánh Hòa

2224/KSBT-TCHC

Mời chào giá sửa xe ô tô

1909/KSBT-TCHC

Mời chào giá thuê xe vận chuyển viên chức, người lao động đi công tác các huyện, thị xã, thành phố tỉnh Khánh Hòa

1913/KSBT-KHNV

Mời chào giá mua cơ số thuốc (lần 2)

310/BTTTT-ƯDCNTT

Công văn số 310/BTTTT-ƯDCNTT ngày 10/02/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc hướng dẫn áp dụng bộ tiêu chí đánh giá cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước

Tổng đài tư vấn các dịch vụ
Số ĐIỆN THOẠI
Thống kê
  • Đang truy cập371
  • Hôm nay8103
  • Tháng hiện tại196390
  • Năm hiện tại3170911
  • Tổng lượt truy cập9336811
  • Xem tiếp >>
Phòng chống cúm A(H5) trên người
Liên kết website